Nghiên cứu thực trạng chi phí khám bệnh và điều trị ngoại trú cho bệnh nhân bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Quân y 121 từ tháng 7/2020 đến tháng 3/2021

  • Nguyễn Doãn Anh Bệnh viện Quân y 121
  • Nguyễn Thị Ngọc Vân Trường Đại học Y Dược Cần Thơ

Main Article Content

Tóm tắt

Mục tiêu: Xác định các chi phí khám và chi phí điều trị đối với người bệnh bảo hiểm y tế ngoại trú, làm cơ sở xác định các chỉ số cần điều chỉnh cho thanh quyết toán theo phương thức định suất sẽ được áp dụng. Đối tượng và phương pháp: Báo cáo về người bệnh bảo hiểm y tế đến khám và điều trị tại bệnh viện Quân y 121 từ tháng 7/2020 đến tháng 3/2021. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả và kết luận: Xác định các chỉ số cơ bản của thanh quyết toán bảo hiểm y tế ngoại trú (chi phí chung, chi phí cận lâm sàng, chi phí thuốc điều trị, chi phí theo nhóm tuổi). Trung bình chi phí/lượt khám chung là 174.985,89 ± 16.873,69đ. Tỷ lệ % (chi phí xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh/chi phí) chung là 16,01%.  Nhóm 4 và nhóm 5 có chi phí cao (tương ứng là 174.743,32 đ (99,86%) và 195.712,09đ (111,84%)). Trung bình chi phí thuốc/lượt khám là 111.213,48 ± 16.046,95đ chiếm 63,56%. Chi phí thuốc ở nhóm 4, nhóm 5 chiếm tỷ lệ lớn (64,32% và 70,47%)

Article Details

Các tài liệu tham khảo

1. Bộ Y tế (2020) Ban hành văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện thí điểm phương thức thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất, số 4146/QĐ-BYT ngày 1 tháng 10 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
2. Bộ Y tế (2018) Niêm giám thống kê y tế, Hà Nội.
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2012) Báo cáo đánh giá 2 năm thực hiện phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất, Hà Nội.
4. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2021) Thông báo quỹ định suất tạm tính năm 2021, Công văn số 2008, ngày 12/7/2021.
5. Quốc hội (2014) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế, số 46/2014/QH13, ngày 13/6/2014.
6. Bùi Huy Tùng (2019) Đánh giá kết quả thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Khánh Hòa năm 2014. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội.