Xạ hình xương 3 pha và SPECT/CT đánh giá, dự báo khả năng sống và liền xương sau phẫu thuật ghép xương tự thân: Báo cáo trường hợp lâm sàng

  • Nguyễn Quang Đức Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City
  • Đinh Văn Thuyết Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City
  • Lê Minh Trường Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City
  • Nguyễn Quốc Thắng Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City
  • Phạm Xuân Xuyên Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City
  • Nguyễn Ngọc Chiến Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City
  • Nguyễn Viết Kiên Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City
  • Phạm Đăng Tùng Bệnh viện ĐKQT Vinmec - Times City

Main Article Content

Keywords

Phẫu thuật ghép xương tự thân bảo tồn chi, xạ hình 3 pha, SPECT/CT đánh giá sống còn của xương ghép.

Tóm tắt

Ghép xương là phẫu thuật phổ biến với việc xương ghép được sử dụng để tạo ra xương mới và hình thành quá trình liền xương. Việc đánh giá tình trạng xương ghép sau phẫu thuật, đặc biệt ở giai đoạn sớm rất có ý nghĩa với các nhà lâm sàng. Xạ hình xương sử dụng 99mTc MDP là một kỹ thuật không xâm lấn đã được áp dụng trong việc đánh giá sớm khả năng sống của xương ghép. Sự hấp thụ dược chất phóng xạ phản ánh có sự hiện diện của tuần hoàn và chuyển hóa của xương ghép. Tại hệ thống Bệnh viện Vinmec, chúng tôi sử dụng xạ hình xương 3 pha, SPECT/CT để đánh giá 6/14 bệnh nhân ghép xương tự thân được xử lý bằng dung dịch ni tơ lỏng ở các bệnh nhân ung thư xương tại thời điểm sau mổ 3-4 tháng. Kết quả cho thấy xạ hình xương 3 pha và SPECT/CT có thể tiên đoán sớm hơn hình ảnh X-quang về khả năng sống, liền xương của xương ghép sau phẫu thuật, cung cấp cho lâm sàng thêm thông tin chi tiết để giúp ích trong việc theo dõi, xử trí và tiên lượng. Trong bài này chúng tôi xin báo cáo một trường hợp điển hình bệnh nhân nam, ung thư xương chày phải (giai đoạn IIb), được đánh giá xạ hình xương 3 pha và SPECT/CT sau phẫu thuật bảo tồn. 

Article Details

Các tài liệu tham khảo

1. Atilgan HI, Demirel K, Kankaya Y, Oktay M, Sahiner C, Korkmaz M, Koca G, Kocer U, Kankaya D (2016) Bone scintigraphy for the evaluation of bone grafts. IJHSR 6(4): 456-461.
2. Schimming R, Juengling FD, Lauer G, Schmelzeisen R (2000) Evaluation of microvascular bone graft reconstruction of the head and neck with 3-D 99mTc-DPD SPECT scans. Oral Surgery, Oral Medicine, Oral Pathology, Oral Radiology, and Endodontology 9(6): 679-685.
3. Beaman FD, Bancroft LW, Peterson JJ, Kransdorf MJ, Menke DM, DeOrio JK (2006) Imaging characteristics of bone graft materials. Radiographics 26(2): 373-388.
4. Đặng Minh Quang, Nguyễn Trần Quang Sáng, Trần Đức Thanh, Trần Văn Công, Trần Tuyết Thanh Hải, Nguyễn Văn Khánh, Trần Trung Dũng (2022) Phẫu thuật ghép xương tự thân xử lý dung dịch nitơ lỏng điều trị ung thư xương đầu dưới xương chày: Báo cáo nhân 1 trường hợp. Tạp chí Y học Việt Nam. 520 (11), tr. 398-405.
5. Đỗ Phước Hùng, Lâm Đạo Giang, Nguyễn Việt Trung, Trần Văn Vương (2022) Ghép xương tự thân tái chế xử lý bằng nitơ lỏng sau cắt bướu ác xương chày - Một kỹ thuật hứa hẹn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 26 (1), tr. 1859-1779.
6. Tsuchiya H, Wan SL, Sakayama K, Yamamoto N, Nishida H, Tomita K (2005) Reconstruction using an autograft containing tumour treated by liquid nitrogen. The Journal of Bone & Joint Surgery British 87(2): 218-225.
7. Harada H, Takinami S, Makino S, Kitada H, Yamashita T, Notani K, Fukuda H, Nakamura M (2000) Three - phase bone scintigraphy and viability of vascularized bone grafts for mandibular reconstruction. International Journal of Oral & Maxillofacial Surgery 29(4): 280-284.
8. Buyukdereli G, Guney IB, Ozerdem G, Kesiktas E (2006) Evaluation of vascularized graft reconstruction of the mandible with Tc-99m MDP bone scintigraphy. Annals of nuclear medicine 20: 89-93.
9. Kim H, Lee K, Ha S, Shin E, Ahn KM, Lee JH, Ryu JS (2020) Predicting vascularized bone graft viability using 1-week postoperative bone SPECT/CT after maxillofacial reconstructive surgery. Nuclear Medicine and Molecular Imaging 54: 292-298.